Sáng 20-5, sau 2 ngày làm việc, phiên tòa xét xử nguyên đô đốc Nguyễn Văn Hiến, nguyên thứ trưởng Bộ Quốc phòng cùng, 7 bị cáo khác trong vụ án liên quan đến sai phạm tại 3 khu đất trên đường Tôn Đức Thắng (TP HCM) bước sang phần tranh luận. Mở đầu, đại diện VKS trình bày bản luận tội đối với bị cáo Đinh Ngọc Hệ (tức Út "trọc", nguyên phó tổng giám đốc Tổng Công ty Thái Sơn, Bộ Quốc phòng).
Bị cáo Nguyễn Văn Hiến |
Theo cơ quan công tố, suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, Đinh Ngọc Hệ có thái độ chối tội, không thừa nhận hành vi phạm tội, cho rằng bị các bị cáo khác khai không đúng về mình.
Chính vì thái độ này, ngay sau khởi tố, Cơ quan điều tra đã thu thập chứng cứ, lấy lời khai của những người liên quan đều hợp tác tốt, cung cấp tài liệu chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo.
Khi còn công tác tại Tổng công ty Thái Sơn, Hệ thành lập nhiều công ty như Công ty Thái Sơn Bộ Q.P, Công ty cổ phần Xăng dầu Thái Sơn B.Q.P…. Thực chất, đây đều là công ty tư nhân, việc đặt tên như trên khiến nhiều người lầm tưởng đây là các công ty của Bộ Quốc phòng. Hệ còn thành lập nhiều công ty và đứng sau chỉ đạo như Công ty Yên Khánh, Tập đoàn Đức Bình, Công ty Mai Hiền… Các công ty này có tư cách pháp nhân do người thân của Hệ đứng tên thành lập. Tuy nhiên, trên thực tế, tất cả hoạt động dưới sự điều hành của Hệ.
Cũng theo VKS, hành vi điển hình trong các chuỗi hành vi vi phạm pháp luật của Hệ khi điều hành các công ty là không góp vốn, hoặc không góp vốn đầy đủ, thôn tính đất quốc phòng, sau đó sử dụng trái phép hoặc chiếm đoạt quyền sử dụng, dùng ảnh hưởng và mối quan hệ của mình để chi phối, giành được các dự án lớn. Trong vụ án này, với thủ đoạn tinh vi nhằm thôn tính khu đất 7-9, Hệ đã gian dối trong việc phản ánh năng lực của Công ty Yên Khánh để ký hợp đồng liên doanh với Công ty Hải Thành (thuộc Quân chủng Hải quân), rồi chuyển Giấy chứng nhận quyền sử dụng khu đất từ Công ty Hải Thành sang Công ty Yên Khánh Hải Thành và mang đi thế chấp ở ngân hàng, phục vụ lợi ích riêng của Hệ, không liên quan gì tới dự án. Việc thế chấp khiến khu đất có thể bị phát mại bất cứ lúc nào nếu không thanh toán được tiền nợ.
Tại công ty Yên Khánh, Hệ nhờ cháu là Vũ Thị Hoan, một sinh viên năm nhất 21 tuổi không hiểu biết gì về pháp luật, đứng tên thành lập. Một cá nhân khác là Đỗ Văn Trưởng, chỉ là nhân viên bảo vệ ở Tập đoàn Đức Bình, nhưng cũng được Hệ đưa vào làm người góp vốn, chính bản thân người này sau khi làm việc với cơ quan điều tra cũng không hiểu vì sao mình lại có tên trong công ty.
Công ty Yên Khánh cũng gian dối trong việc phản ánh năng lực khiến các cán bộ Quân chủng Hải quân hiểu sai, từ đó đồng ý hợp tác liên doanh với công ty này. Theo hợp đồng, Công ty liên doanh Yên Khánh Hải Thành có vốn điều lệ 320 tỉ đồng, trong đó Công ty Yên Khánh sẽ góp 90%, tương đương 288 tỉ đồng. Tuy nhiên, thực tế, Công ty Yên Khánh không hề góp vốn như thỏa thuận.
Do thiếu trách nhiệm và năng lực, các cán bộ của Quân chủng Hải quân đã đồng ý ký kết hợp đồng với Công ty Yên Khánh mà không biết rằng Hệ đang thực hiện hành vi lừa đảo, không lường trước được hậu quả như ngày hôm nay.
VKS nhận định hành vi lừa đảo chiếm đoạt quyền sử dụng đất của Hệ diễn ra trong nhiều năm với sự tính toán kỹ càng từ khi thành lập Công ty Yên Khánh, và được thể hiện rõ nhất qua việc thế chấp khu đất số 7-9 tại ngân hàng.
Bị cáo sẵn sàng quy chụp cho cả người thân (bị cáo Vũ Thị Hoan, cháu gái Hệ - PV) vu khống mình nhằm che giấu thân phận, trốn tránh trách nhiệm. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và xét xử có đủ căn cứ xác định Hệ là người phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với vai trò là người tổ chức.
VKS đánh giá hành vi của Đinh Ngọc Hệ không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của nhà nước mà còn gây lũng đoạn chính sách phát triển kinh tế, làm hư hỏng một số lượng không nhỏ đội ngũ cán bộ nhà nước, trong đó có cả cán bộ cao cấp của quân đội, đưa nhiều nguời khác vào vòng lao lý.
VKS đánh giá, bị cáo Nguyễn Văn Hiến, tại thời điểm phạm tội giữ chức Tư lệnh quân chủng Hải quân là người chỉ huy cao nhất của quân chủng, chịu trách nhiệm trước Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đảng ủy quân chủng về chỉ huy, quản lý, xây dựng quân chủng Hải quân vững mạnh, đảm bảo sẵn sàng chiến đấu, hoàn thành nhiệm vụ được giao. Với cương vị, bị cáo phải thực hiện nhiều chức trách, nhiệm vụ quan trọng, trong đó, chỉ đạo các cơ quan đơn vị thực hiện đúng các chức trách, chế độ, chấp hành đúng quy định của pháp luật.
Theo đại diện VKS, chủ trương làm kinh tế là đúng và được Bộ Quốc phòng đồng ý trên cơ sở phải tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, khi thực hiện chủ trương của Thường vụ Đảng ủy Quân chủng, bị cáo Hiến đã thiếu kiểm tra, tin tưởng vào cấp dưới nên đã ký, phê duyệt 3 khu đất quốc phòng vào liên doanh kinh tế mà bản chất là cho thuê đất không đúng quy định của Bộ Quốc phòng, Chính phủ, Luật đất đai 2013.
Khi công ty Yên Khánh gửi tờ trình số 10 đưa ra các thông tin gian dối về năng lực, với cương vị chức trách của mình, bị cáo phải thực hiện chỉ đạo kiểm tra năng lực công ty nhưng các bị cáo Bùi Như Thiềm, Đoàn Mạnh Thảo đã không tham mưu, đề xuất kiểm tra. Bị cáo không chỉ đạo kiểm tra nên không phát hiện gian dối trong tờ trình. Do tin tưởng vào cấp dưới nên bị cáo ký các văn bản cho doanh nghiệp ngoài quân đội thuê 3 khu đất quốc phòng làm kinh tế dưới hình thức liên doanh kinh tế.
Trong quá trình thực hiện dự án, bị cáo không kiểm tra việc góp vốn bằng quyền sử dụng 3 khu đất, không kiểm tra việc thực hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ Quốc phòng, sau khi ủy quyền cho Giám đốc công ty Hải Thành, bị cáo không kiểm tra việc thực hiện của các cơ quan, công ty Hải Thành, dẫn đến bị đối tác mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đi thế chấp, chuyển đổi loại hình doanh nghiệp, nhượng quyền sở hữu cho bên thứ 3, không thực hiện đúng quy định pháp luật về nộp tiền sử dụng đất, làm quân chủng mất quyền quản lý 3 khu đất, gây thất thoát số tiền 939 tỉ đồng.
Trong quá trình điều tra, xác định bị cáo cùng một thời điểm thực hiện nhiều chức trách nhiệm vụ của Tư lệnh quân chủng Hải quân, đúng thời điểm tình hình biển đảo có nhiều phức tạp, bị cáo đã tin tưởng vào sự bàn bạc tập thể, cấp dưới, các văn bản các bị cáo ký, phê duyệt đều do các cơ quan tham mưu đề xuất. Các bị cáo Thiềm, Thảo, Nga thừa nhận tham mưu đề xuất không đúng, nhưng bị cáo Hiến với cương vị, chức trách của mình đã thiếu kiểm tra, hoặc có việc kiểm tra nhưng không trực tiếp, không chỉ đạo thực hiện đúng pháp luật về việc nộp tiền sử dụng đất, dẫn đến hậu quả làm thất thoát số tiền lớn của Nhà nước.
Lời khai của bị cáo Hiến trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các chứng cứ khác, hồ sơ tài liệu đã đủ cơ sở xem xét trách nhiệm hình sự của bị cáo. Bị cáo là người có chức vụ, quyền hạn thực hiện tội phạm với lỗi vô ý vì quá tự tin, tính chất, hành vi phạm tội là rất nghiêm trọng, đã xâm phạm đến nguyên tắc hoạt động, tính đúng đắn trong hoạt động quản lý Nhà nước, gây ra thiệt hại hơn 939 tỉ đồng của Nhà nước. Cần phải xử lý nghiêm minh theo quy đinh pháp luật
Về tình tiết giảm nhẹ, VKS đánh giá bị cáo Hiến có nhân thân tốt, trong quá trình công tác đã có nhiều công lao đóng góp xây dựng Quân đội và cho sự nghiệp bảo vệ biển đảo của Tổ quốc. Trong vụ án này, bị cáo không có vụ lợi cá nhân, có thái độ khai báo thành khẩn với cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa. Ngoài ra, bị cáo có anh trai là liệt sĩ, mẹ già...
Từ những phân tích trên, VKS đề nghị HĐXX tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn Hiến 3-4 năm tù về tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng. Bị cáo Bùi Như Thiềm (nguyên trưởng phòng Kinh tế quân chủng Hải quân) 7-9 năm tù; Đoàn Mạnh Thảo (nguyên trưởng phòng Tài chính quân chủng Hải quân) 5-7 năm tù, Bùi Văn Nga (nguyên giám đốc Công ty Hải Thành) 6-8 năm tù và Trần Trọng Tuấn (nguyên phó giám đốc công ty này) cùng bị xét xử về tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai.
Bị cáo Đinh Ngọc Hệ bị đề nghị 20 năm tù, phạt tiền từ 80 đến 100 triệu đồng (tổng hình phạt cùng với án tù 12 năm trước đó VKS đề nghị 30 năm tù), Phạm Văn Diệt (nguyên tổng giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn Đức Bình) 15 năm tù, phạt tiền từ 50 đến 70 triệu đồng và Vũ Thị Hoan (nguyên giám đốc Công ty Yên Khánh) 7-9 năm tù, phạt tiền từ 20 đến 30 triệu đồng cùng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.